Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, Điều 134: Tội đánh nhau gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được chia thành các mức vi phạm sau: Đánh nhau gây thương tích bao nhiêu % thì bị đi tù? Thứ nhất, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong…
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, Điều 134: Tội đánh nhau gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được chia thành các mức vi phạm sau:
Đánh nhau gây thương tích bao nhiêu % thì bị đi tù?
Thứ nhất, người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
– Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
– Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
– Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
– Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
– Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;
– Phạm tội 02 lần trở lên;
– Phạm tội đối với 02 người trở lên;
– Có tổ chức;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
– Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
– Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;
– Có tính chất côn đồ;
– Tái phạm nguy hiểm;
– Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Như vậy, người nào gây thương tích cho người khác dưới 11% và thuộc các trường hợp mang tính chất nguy hiểm như luật quy định ở trên thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Thứ hai, trường hợp thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều 134 BLHS 2015, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm, nếu chủ thể gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%.
Thứ ba, trường hợp phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 4 năm đến 7 năm.
Thứ tư, thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều 134 BLHS 2015, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm, nếu chủ thể phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
Thứ năm, phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều 134 BLHS 2015 hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Thứ sáu, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
– Làm chết 02 người trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
– Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Thứ bảy, Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Xét trên các yếu tố cơ bản tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tội danh này vẫn được cấu thành chủ yếu dựa vào việc lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt. Thực tiễn xét xử và đấu tranh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thời điểm có Bộ luật hình sự đến nay luôn cho thấy những bất cập cần phải xử lý trong các quy định về tội phạm này. Đó là lý do trong Bộ luật hình sự 2015 có nhiều sửa đổi đối với tội danh về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Về căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định của điều 134 BLHS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ để truy cứ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 “b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Đây là vấn đề chưa từng xuất hiện trong Bộ luật hình sự 1999 trong tất cả các tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe con người chứ không chỉ riêng trong điều 134 BLHS 2015. Ghi nhận vấn đề này cho thấy những yếu tố về thực tiễn về công cụ, chất nguy hiểm thường dùng trong cố ý gây thương tích đã được khẳng định trong BLHS 2015 từ quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm này.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì khi tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc trường hợp tại a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o mới bị truy cứu theo khoản này. Điều này khác với điều 104 BLHS 1999 khi mang tất cả các trường hợp có trong khoản 1 vào áp dụng ở khoản 2, còn BLHS 2015 thì không mang tất cả mà loại trừ điểm c khoản 1 điều 134 ra, tức không có trường hợp “c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”. Vấn đề này là khắc phục vấn đề gây nhiều tranh cãi trước đó tại BLHS 1999.