Tội dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án, hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cụ thể tại khoản 1 Điều 373 BLHS 2015 quy định như sau: “1. Người nào trong…
Tội dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án, hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cụ thể tại khoản 1 Điều 373 BLHS 2015 quy định như sau:
“1. Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Thứ nhất:
Điều 298, BLHS năm 1999 quy định chỉ những hành vi dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án mới cấu thành tội phạm này. Nhưng điều 373 BLHS 2015 quy định mở rộng hơn cả về loại hành vi (ngoài hành vi dùng nhục hình còn có hành vi đối xử tàn bạo và hành vi hạ nhục nhân phẩm) mở rộng cả về phạm vi bảo vệ (dùng nhục hình không chỉ trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án mà cả trong hoạt động thi hành các biện pháp xử lý hành chính như đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng bị coi là phạm tội này)
Thứ hai:
khác với BLHS năm 1999, điều luật không chỉ quy định mức hình phạt cao hơn( hình phạt cao nhất có thể là tù chung thân), các trường hợp dùng nhục hình gây hậu quả thương tích nghiêm trọng hoặc dẫn đến chết người không xử lý về nhiều tội như trước đây mà điều luật quy định đó là các tình tiết tăng nặng định khung. Cụ thể là:
– Khung 1: Quy định hình phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm
– Khung 2: Quy định hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm khi có một trong các tình tiết:
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
+ Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%.
– Khung 3: Quy định hình phạt tù từ 7 năm đến 12 năm với các trường hợp:
+ Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Làm người bị nhục hình tự sát
– Khung 4: Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong trường hợp làm người bị nhục hình chết.
Như vậy có thể thấy, điều luật đã quy định khá rõ ràng từng trường hợp mà không còn quy định mơ hồ như điều luật cũ. Bởi những cụm từ “phạm tội gây hậu quả nghiêm trong” hoặc “phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” chỉ mang tính chất định tính, khó xác định.
Mọi vấn đề thắc mắc liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật hình sự 1900 8698 để được hỗ trợ