Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.” Theo đó, hợp đồng cho vay tiền được xác định là hợp đồng vay tài sản Điều 463 Bộ luật này quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải…
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”
Theo đó, hợp đồng cho vay tiền được xác định là hợp đồng vay tài sản
Điều 463 Bộ luật này quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Làm thế nào để đòi lại tiền đã cho vay khi bên vay không trả
Khoản 1 Điều 466 Bộ luật này quy định: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn;”
Khoản 5 Điều này quy định Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
“a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Điều 468 quy định về lãi suất:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Từ những quy định trên, người vay có nghĩa vụ trả tiền đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khi không thực hiện đúng những gì đã thỏa thuận trong hợp đồng tức là người vay đã vi phạm hợp đồng và đó là căn cứ để bên cho vay có thể khởi kiện người đó ra Tòa án nhân dân để bảo về quyền lợi của mình.