Tội kinh doanh trái phép sẽ bị xử lý ra sao? Điều này được quy định thế nào và mức án tội này Và Newvision Law sẽ giải đáp cho câu hỏi này “Điều 159 luật hình sự năm 1999 quy định về tội kinh doanh trái phép” 1. Người nào kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải…
Tội kinh doanh trái phép sẽ bị xử lý ra sao?
Điều này được quy định thế nào và mức án tội này
Và Newvision Law sẽ giải đáp cho câu hỏi này
“Điều 159 luật hình sự năm 1999 quy định về tội kinh doanh trái phép”
1. Người nào kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm:
a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 160, 161, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm;
b) Hàng phạm pháp có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:
a) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
b) Mạo nhận một tổ chức không có thật;
c) Hàng phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
d) Thu lợi bất chính lớn.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”
Tội kinh doanh trái phép
Kinh doanh trái phép là tội phạm ít nghiêm trọng
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù (khoản 3 điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo đó, kinh doanh trái phép ở Việt Nam được xem là dạng tội phạm ít nghiêm trọng cho xã hội.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác (Khoản 4, Điều 8 BLHS). Với mức độ ít nghiêm trọng, thông thường sẽ bị xử phạt hành chính, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, thế nào là gây nguy hại không lớn? Gây nguy hại lớn cho xã hội là gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng? Hay gây nên sự mất an ninh, an toàn xã hội trên nhiều vùng dân cư?
Căn cứ vào khoản 3, Điều 8 đã nêu trên con số được lượng hóa duy nhất đó là: Tất cả những điều khoản của tội nào có trong Bộ luật hình sự mà mức phạt tù cao nhất được ghi trong điều đó là ba năm thì được xếp vào tội phạm ít nghiêm trọng.
Về khoa học pháp lý, theo tôi nếu đã lượng hóa con số “ba năm tù” thì không cần để cụm từ “gây nguy hại không lớn cho xã hội” . Còn nếu muốn đưa yếu tố nguy hại cho xã hội thì phải lượng hóa cụ thể để không gây hiểu nhầm.
Hành vi kinh doanh trái phép là thế nào?
Phải có hành vi kinh doanh đã xảy ra trên thực tế và có một trong ba yếu tố:
(1) Có hành vi kinh doanh nhưng không đăng ký kinh doanh (không làm thủ tục đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước hoặc có làm thủ tục nhưng không được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà vẫn thực hiện việc kinh doanh).
(2) Có hành vi kinh doanh, có đăng ký kinh doanh nhưng không đúng với nội dung đã đăng ký. (Ví dụ đăng ký kinh doanh về điện tử nhưng lại kinh doanh thêm cả về thiết bị máy cày, máy nổ).
(3) Có hành vi kinh doanh, có đăng ký kinh doanh đúng với nội dung đã đăng ký trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh/ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nhưng không có Giấy phép riêng – giấy phép riêng ở đây hiểu là “giấy phép con” như nhiều khách hàng của chúng tôi vẫn gọi. Ví dụ giấy phép kinh doanh rượu, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh vệ sinh an toàn thực phẩm v.v…
Gộp cả ba ý trên có thể hiểu gọn lại như sau: Hành vi kinh doanh trái phép là việc thực hiện các giao dịch kinh doanh với mục đích sinh lợi nhưng không “thông báo” với cơ quan chủ quản Nhà nước về giao dịch đó.
Việc “thông báo” này nhằm mục đích yêu cầu cá nhân, doanh nghiệp phải nộp thuế, tuân thủ điều kiện về môi trường, nước thải, an toàn lao động và các quy chuẩn khác mà nhà nước hướng tới. Ví dụ nếu anh kinh doanh trái phép, khách hàng hoặc đối tác của anh có thể bị mất quyền lợi pháp lý nếu như xảy ra tranh chấp, lại không có danh mục khai thuế nên nhà nước thất thu thuế, kinh doanh với số lượng tiền lớn thì nhà nước mất đi con số thông kê tài chính (các con số này thường dùng để báo cáo trong các kỳ tổng kết và được xem là cơ sở để định hướng các chính sách kinh tế xã hội).