Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập mạnh mẽ, những hàng hoá, dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng có mặt nhiều hơn và dần trở nên quen thuộc với người tiêu dùng nước ta Google, Microsoft, IBM, Samsung, Nike… Đồng thời, với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước, nhiều nhãn hiệu Việt cũng dần chứng minh được uy tín, danh tiếng, sự đảm bảo về chất lượng của mình như Vinamilk, Vinacafe, Petrolimex… Bảo…
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập mạnh mẽ, những hàng hoá, dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng có mặt nhiều hơn và dần trở nên quen thuộc với người tiêu dùng nước ta Google, Microsoft, IBM, Samsung, Nike… Đồng thời, với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước, nhiều nhãn hiệu Việt cũng dần chứng minh được uy tín, danh tiếng, sự đảm bảo về chất lượng của mình như Vinamilk, Vinacafe, Petrolimex…
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là một thủ tục pháp lý không bắt buộc, nhưng vô cùng quan trọng cho những doanh nghiệp, cá nhân đang sở hữu loại tài sản này. Khác với một nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu nổi tiếng được khách hàng trên phạm vi toàn cầu hoặc toàn lãnh thổ quốc gia đó biết đến. Bên cạnh những giá trị to lớn đối với doanh nghiệp sở hữu, sử dụng, nó tạo ra ấn tượng đã in sâu vào tiềm thức người dùng, gây được những thiện cảm tốt, để họ có thể định hình ra ngay sản phẩm khi nhìn thấy nhãn hiệu đó. NHNT đòi hỏi một cơ chế bảo hộ khả thi và hiệu quả để đảm bảo một cách tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu và các chủ thể liên quan. Được công nhận và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Việt Nam, nhu cầu này thường gắn với việc khẳng định uy tín, chất lượng của các thương hiệu Việt. Đối với doanh nghiệp nước ngoài, nhu cầu này còn gắn với mong muốn đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn ở Việt Nam, nhãn hiệu nổi tiếng bắt đầu được ghi nhận tại Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Trong các văn bản pháp luật hiện hành, nhãn hiệu nổi tiếng được điều chỉnh bởi Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009) và một số văn bản dưới luật (như Thông tư 01/2007/TT-BKHCN). Mặc dù cơ sở pháp lý cho bảo hộ và thực thi quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam đã được thiết lập, nhưng vẫn còn một số hạn chế, gây ra không ít khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ việc liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng.
Thứ nhất, Khoản 20 Điều 4 quy định “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Định nghĩa này chưa khái quát được đặc điểm, bản chất của nhãn hiệu nổi tiếng. Đó là danh tiếng, uy tín gắn liền với nhãn hiệu như: danh tiếng, uy tín của nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ; chất lượng hàng hoá, dịch vụ; bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng (chăm sóc khách hàng, dịch vụ hậu mãi…). Hơn nữa, định nghĩa này được cho là đặt ra yêu cầu quá cao so với các điều ước quốc tế chứa đựng các cam kết về nhãn hiệu nổi tiếng (Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ – TRIPs). Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, nhãn hiệu nổi tiếng phải được người tiêu dùng biết đến rộng rãi , trong khi Hiệp định TRIPs chỉ đặt ra yêu cầu đối với bộ phận công chúng liên quan (relevant sector of the public).Hơn nữa, điều này cũng có nghĩa là nếu một nhãn hiệu rất nổi tiếng trên thế giới, tuy nhiên nếu người tiêu dùng Viêt Nam không biết đến, thì nhãn hiệu này chưa được coi là nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cần học hỏi các quy định về định nghĩa “ nhãn hiệu nổi tiếng” của các quốc gia trên thế giới. Họ phân biệt hai cấp độ : “nhãn hiệu nổi tiếng” ( well – known marks) là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi trong phạm vi quốc gia và “nhãn hiệu rất nổi tiếng” (famous marks) là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi trên thị trường quốc tế , mang tính toàn cầu. Những nhãn hiệu được coi là nổi tiếng toàn cầu có thể kể đến như : Coca-cola , Microsoft , nokia, goole…
Thứ hai, quy định các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng chưa rõ ràng. Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ quy định 8 tiêu chí được xem xét khi đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng nhưng lại không quy định rõ để một nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng thì phải thoả mãn tất cả các tiêu chí này hay chỉ một hoặc một số tiêu chí. Hơn nữa, các tiêu chí được cho là còn chung chung và mang tính định tính, mặc dù đã được quy định bổ sung tại điểm 42 Thông tư 01/2017/TT-BKHCN nhưng vẫn không dễ dàng áp dụng trong thực tiễn.
Thứ ba, các quy định pháp luật hiện hành chưa đủ để phân biệt “nhãn hiệu nổi tiếng” với “nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi” (được ghi nhận tại điểm g, Khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ) và “nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi” (được đề cập trong một số văn bản pháp luật như Nghị định 99/2013/NĐ-CP, Thông tư 11/2015-TT-BKHCN). Nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi được điều chỉnh bởi quy chế pháp lý khác nhau. Nhãn hiệu nổi tiếng được coi là một loại nhãn hiệu có phạm vi bảo hộ rộng hơn phạm vi bảo hộ dành cho nhãn hiệu thông thường. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng bị xử lý như hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; còn hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Pháp luật Việt Nam không có quy định thế nào là nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi. Theo Điểm d, khoản 1, Điều 19 Thông tư 11/2015/TT-BKHCN, nhãn hiệu được coi là sử dụng rộng rãi nếu chủ thể yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh cung cấp được các chứng cứ chứng minh: chủ thể kinh doanh đã sử dụng nhãn hiệu một cách rộng rãi, ổn định, được nhiều người tiêu dùng tại Việt Nam biết đến, có thể bao gồm: các thông tin về quảng cáo, tiếp thị, trưng bày triển lãm; doanh thu bán hàng; số lượng sản phẩm bán ra; hệ thống đại lý phân phối, liên doanh, liên kết; quy mô đầu tư; đánh giá của các cơ quan nhà nước, phương tiện thông tin đại chúng, bình chọn của người tiêu dùng và các thông tin khác thể hiện uy tín của chủ thể kinh doanh gắn với chỉ dẫn thương mại trong hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi có mức độ phổ biến và danh tiếng, uy tín ở Việt Nam thấp hơn nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy vậy, nếu đặt quy định nêu trên của Thông tư 11/2015/TT-BKHCN với các quy định pháp luật hiện hành về nhãn hiệu nổi tiếng, vẫn không đủ cơ sở để phân biệt 2 đối tượng này.Chính vì quy chế pháp lý dành cho nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi rất khác biệt, cho nên quy định pháp luật về từng đối tượng giúp xác định đúng một nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng hay nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi có giá trị pháp lý và thực tiễn.
Thứ tư, thẩm quyền công nhận nhãn hiệu nổi tiếng được trao cho Toà án và Cục Sở hữu trí tuệ nhưng lại thiếu các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục công nhận nhãn hiệu nổi tiếng.
Xuất phát từ những hạn chế pháp lý nêu trên và với nhận thức chưa đầy đủ, thiếu chính xác về nhãn hiệu nổi tiếng dẫn tới những vướng mắc trong bảo hộ, thực thi quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam.