Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chứ, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sang tạo ra hoặc sở hữu và có quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Vậy pháp luật quy định về giới hạn quyền sở hữu công nghiệp như thế nào ? 1. Yếu tố giới hạn quyền sở hữu công…
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chứ, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sang tạo ra hoặc sở hữu và có quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Vậy pháp luật quy định về giới hạn quyền sở hữu công nghiệp như thế nào ?
1. Yếu tố giới hạn quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu không phải là quyền tuyệt đối mà bị giới hạn bởi các yếu tố được quy định cụ thể trong Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009.
Các yếu tố giới hạn quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Điều 132 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.
“Điều 32. Các yếu tố hạn chế quyền sở hữu công nghiêp.
1. Quyền của người sử dụng trước đối với sang chế, kiểu dáng công nghiệp.
2. Các nghĩa vụ của chủ sở hữu, bao gồm:
a) Trả thì lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí.
b) Sử dụng sáng chế nhãn hiệu.
3. Chuyển giao sử dụng sang chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
2. Phạm vi quyền và giới hạn trong sở hữu công nghiệp
Với những yếu tố mà Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định chi tiết từ Điều 133 đến Điều 137, tạo điền kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu rõ phạm vi quyền và giới hạn của mình trong sở hữu công nghiệp:
– Chủ sở hữu phải chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quy định của cơ quan Nhà nước trong trường hợp phục vụ vì mục đích công cộng, phi thương mại, quốc phòng an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân và dáp ứng các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội
– Quyền sử dụng trước đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp quy đinh tại Điều 134 Luật sở hữu trí tuệ: Trường hợp trước ngày đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được công bố mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo ra một cách độc lập (sau đây gọi là người có quyền sử dụng trước) thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ. Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Người có quyền sử dụng trước sáng chế, kiểu dáng công nghiệp không được phép chuyển giao quyền đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao quyền đó kèm theo việc chuyển giao cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Người có quyền sử dụng trước không được mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng nếu không được chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp cho phép.
– Chủ sở hữu có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí với mức thù lao được quy định tại Điều 135 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể: 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu thu được do sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; 15% tổng số tiền mà chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí. Với trường hợp có đồng tác giả thì chủ sở hữu trả mức thù lao quy đinh như trên cho tất cả các đông tác giả, các đồng tác giả tự thỏa thuận việc phân chia tiền thù lao do chủ sở hữu chi trả. Nghĩa vụ này tồn tại trong suốt thời gian bảo hộ.
– Đồng thời, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ sử dụng sáng chế, nhãn hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh quốc phòng, phòng bệnh, chữa bệnh, nhu cầu cấp thiết khác của xã hội. Chủ sở hữu phải sử dụng liên tục nhãn hiệu đó, nếu không được sử dụng liên tục trong năm năm trở lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu sẽ bị chấm dứt.
– Ngoài ra, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ cho phép người khác sử dụng sáng chế cơ bản để phục vụ cho việc sử dụng sáng chế phụ thuộc trong trường hợp sáng chế phụ thuộc được coi là bước tiến quan trọng về mặt kĩ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý nghĩa kinh tế lớn. Nếu chủ sở hữu không đáp ứng yêu cầu mà không có lí do chính đáng thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế đó cho chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc.
Mọi vấn đề thắc mắc liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật sở hữu trí tuệ 1900 8698 Luật sư phụ trách sẽ hỗ trợ chi tiết.