Tự do kinh doanh là một trong những quyền hiến định của công dân được quy định tại Điều 33 Hiến pháp 2013 theo đó pháp luật cho phép “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Và thành lập doanh nghiệp cũng là một trong những cách để công dân thực hiện quyền của mình. Vậy, có phải bất kì chủ thể nào cũng có quyền thành lập doanh nghiệp không ? Những đối tượng…
Tự do kinh doanh là một trong những quyền hiến định của công dân được quy định tại Điều 33 Hiến pháp 2013 theo đó pháp luật cho phép “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Và thành lập doanh nghiệp cũng là một trong những cách để công dân thực hiện quyền của mình. Vậy, có phải bất kì chủ thể nào cũng có quyền thành lập doanh nghiệp không ?

Những đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp 2014 hầu như không có sự thay đổi lớn nào so với Luật doanh nghiệp 2005. Theo đó, nguyên tắc là tất cả các cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam trừ trường hợp bị cấm theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014).
Đối tượng không có quyền thành lập công ty
Các tổ chức, cá nhân không có quyền thành lập doanh nghiệp và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam có thể được chia thành bốn nhóm sau đây:
– Thứ nhất, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản Nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình (Điểm a, khoản 2 Điều 18).
Đây là hệ thống các cơ quan công quyền hoạt động dựa trên kinh phí nhà nước cấp. Việc pháp luật quy định các chủ thể này không được tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp nhằm đảm bảo minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, góp phần ngăn chặn các hành vi tham nhũng gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước.
“Thu lợi riêng” được hiều là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh vào một trong các mục đích sau đây: chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả những người trong cơ quan, đơn vị; Bổ sung vào ngân sách hoạt động của các cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị.
– Thứ hai, nhóm các cá nhân làm việc trong lĩnh vực nhà nước hoặc an ninh, quốc phòng như cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam (trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp);
– Thứ ba, nhóm các đối tượng bị cấm liên quan đến các yếu tố năng lực hành vi (điểm d, khoản 2, Điều 18) như người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân. Pháp luật doanh nghiệp cấm các chủ thể này thành lập va quản lí doanh nghiệp do khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ hạn chế, nếu để họ tham gia vào hoạt động kinh doanh sẽ gây thiệt hại cho chính bản thân họ cũng như lợi ích của các chủ thể khác;
– Thứ tư, nhóm đối tượng bị cấm khác như người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lí hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc đăng bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Toà án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng chống tham nhũng.
Ngoài những hạn chế về đối tượng không được thành lập doanh nghiệp nêu trên, Luật doanh nghiệp 2014 còn quy định 2 trường hợp đặc biệt áp dụng riêng đối với việc thành lập doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Theo đó, đối với doanh nghiệp tư nhân Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh” (Khoản 3 Điều 183). Đối với công ty hợp danh thì “Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại” (Điều 175).
Như vậy, có thể thấy, quyền thành lập doanh nghiệp là quyền của mỗi cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp để đảm bảo sự minh bạch, bảo vệ quyền của nhà nước, cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân pháp luật doanh nghiệp đã hạn chế quyền này của một số đối tượng nhất định.