Câu hỏi: Bác tôi có một căn nhà ở Hà Nội, muốn sang tên cho con đẻ đang mang quốc tịch Đức thì phải làm thế nào? Mong được các luật tư vấn, xin chân thành cảm ơn! (Nguyễn Văn Nam – Email: namelectri…@yahoo.com) Trả lời: Trường hợp nêu trên của bạn, hiện tại con đẻ của bác bạn đang mang quốc tịch Đức, nhưng chưa nói rõ đã mất hay còn quốc tịch Việt Nam. Do vậy, sẽ có 2 trường hợp xảy ra:…
Câu hỏi:
Bác tôi có một căn nhà ở Hà Nội, muốn sang tên cho con đẻ đang mang quốc tịch Đức thì phải làm thế nào? Mong được các luật tư vấn, xin chân thành cảm ơn!
(Nguyễn Văn Nam – Email: namelectri…@yahoo.com)
Trả lời:
Trường hợp nêu trên của bạn, hiện tại con đẻ của bác bạn đang mang quốc tịch Đức, nhưng chưa nói rõ đã mất hay còn quốc tịch Việt Nam. Do vậy, sẽ có 2 trường hợp xảy ra:
Sang tên nhà tại Việt Nam cho người có quốc tịch Đức có được không?
1.Trường hợp thứ nhất: Nếu con đẻ của bác bạn hiện đang mang quốc tịch Đức nhưng vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam:
Theo Luật Quốc tịch sửa đổi, bổ sung thì một người có quyền mang 2 quốc tịch. Vậy con của bác bạn vẫn vừa mang quốc tịch Việt Nam và quốc tịch Đức, vẫn là công dân Việt Nam, vẫn có đầy đủ quyền tiếp tục sở hữu nhà và đất.
Theo quy định tại Điều 7 – Luật nhà ở năm 2014 về Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam: “2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.”
Và điều 8 về Điều kiện được công nhận quyền ở hữu nhà ở:
“1. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
- Có nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức sau đây:
- b) Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì thông qua hình thức nhận tặng cho,…”
Điều 186 – Luật đất đai năm 2013 về Quyền và nghĩa vụ sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam như sau:
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất ở tại Việt Nam.”
Như vậy, căn cứ vào quy định nói trên, nếu con đẻ của bác bạn hiện đang mang quốc tịch Đức nhưng vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam thì sẽ được sở hữu nhà ở, đất ở tại Việt Nam.
2.Trường hợp thứ hai: Nếu con đẻ của bác bạn hiện đang mang quốc tịch Đức và đã thôi quốc tịch Việt Nam:
Điều 159 – Luật Nhà ở năm 2014 quy định về Đối tượng được sở hữu nhà ở và hình thức sở hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài:
“1. Đối tượng tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm:
- Tổ chức, các nhân nước ngoài đầu từ xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam;
- Cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua các hình thức sau đây:
- Đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án Việt Nam theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan;
- Mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực đảm bảo quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ.”
Như vậy, nếu con đẻ của bác bạn hiện đang mang quốc tịch Đức và đã thôi quốc tịch Việt Nam và thuộc một trong các trường hợp trên thì được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
3.Thủ tục sang tên nhà ở:
Theo quy định pháp luật về Nhà ở, việc chuyển quyền sở hữu căn nhà phải thông qua hợp đồng giao dịch nhà ở, và thực hiện giao dịch nêu trên tại Phòng Công chứng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để làm căn cứ sang tên căn nhà.
Căn cứ Điều 8 Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12, sau khi có được hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng cho tặng giữa bố và con với căn nhà, phải chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở bao gồm:
- Đơn đề nghị;
- Bản sao các giấy tờ chứng minh tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam như đã nêu ở phần trên;
- Bản chính hợp đồng mua bán, tặng cho nhà ở;
- Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà ở của bên bán, bên tặng cho theo quy định của pháp luật về nhà ở;
- Biên lai nộp thuế, lệ phí.
Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở được nộp tại cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà ở. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có nhà ở phải cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Chuyên viên Nguyễn Vinh